Nhân dịp kỷ niệm 23 năm ngày thành lập, Cổng TTĐT Cục Tần số VTĐ giới thiệu khái quát những thành tựu, những dấu mốc quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước về tần số VTĐ trong hơn 20 năm qua của Cục:
Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và sớm được chú trọng thực hiện. Quản lý tần số vô tuyến điện là một trong ba nội dung chính của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông ban hành năm 2002. Năm 2009, Luật Tần số vô tuyến điện được Quốc hội thông qua, là kết quả kế thừa, bổ sung và pháp điển hoá nhiều nội dung của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và hệ thống các quy định về quản lý tần số trước đó, đáp ứng yêu cầu hiện tại và xu hướng phát triển trong tương lai.
Luật Tần số VTĐ đã sớm đi vào cuộc sống, cùng với 02 Nghị định, 05 Quyết định của Thủ tướng, 46 Thông tư, Quyết định của Bộ trưởng và 80 Quy chuẩn được ban hành, đã tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho sự phát triển thông tin vô tuyến của Việt Nam, hiện thực hóa mục tiêu cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong quản lý tần số.
Quy hoạch tần số được xác định là một công cụ quản lý quan trọng, có tính chất mở đường cho sự phát triển vô tuyến điện và đảm bảo việc sử dụng hiệu quả tài nguyên tần số, nên được Cục đầu tư nghiên cứu ngay từ những năm đầu hoạt động. Năm 1998, lần đầu tiên Việt Nam có Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quy hoạch này sau đó được tiếp tục cập nhập, bổ sung vào các năm 2005, 2009 và 2013 cho phù hợp tình hình phát triển thông tin vô tuyến điện ở Việt Nam và các quy định của quốc tế. Các quy hoạch băng tần, kênh tần cũng được xây dựng, tạo cơ sở cho việc phát triển của các hệ thống thông tin vô tuyến điện. Các quy hoạch băng tần cho di động thường được Cục bắt tay vào xây dựng trước thời điểm đưa vào sử dụng 10 năm, tạo ra định hướng rõ ràng trong việc sử dụng cũng như hạn chế tối đa thiệt hại do giải phóng băng tần, nhưng không tạo thành các quy hoạch treo. Công tác quy hoạch tần số được các doanh nghiệp viễn thông trong nước và ngoài nước đánh giá cao.
Phổ tần số là tài nguyên được sử dụng chung cho nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh với nhiều đặc thù riêng, cần có cơ chế quản lý đặc biệt. Sau nhiều năm phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, năm 2006, việc phân chia tần số phục vụ cho mục đích dân sự - quốc phòng - an ninh lần đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ ban hành, tạo hành lang pháp lý quan trọng đảm bảo sự hoạt động ổn định an toàn cho các hệ thống vô tuyến điện các lĩnh vực. Việc phân chia này tiếp tục được thực hiện cho các băng tần cao hơn và năm 2015, Thủ tướng Chính đã ban hành quyết định về phân chia cho dải tần 470-10700 MHz.
Một năm sau ngày thành lập, năm 1994, Cục đã chính thức cấp phép băng tần đầu tiên cho doanh nghiệp thông tin di động Mobifone, mở ra kỷ nguyên phát triển mới của thông tin vô tuyến tại Việt Nam. Các giấy phép băng tần 2G và 3G được cấp tiếp theo cho Vinaphone, Viettel và các doanh nghiệp thông tin di động khác đã tạo nên sự phát triển bùng nổ của thông tin di động của Việt Nam, đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước.
Lĩnh vực PTTH là một lĩnh vực quan trọng, sử dụng nhiều phổ tần, đặc biệt là các băng tần thấp quý hiếm. Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập Cục đã quyết tâm quản lý cho được tần số phát thanh truyền hình, và từ năm 1996 Cục chính thức thực thi công tác cấp phép tần số đối với PTTH, tạo tiền đề để Tổng cục Bưu điện (sau này là Bộ Bưu chính Viễn thông và Bộ Thông tin và Truyền thông) chính thức thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực phát thanh, truyền hình. Các quy hoạch tần số cho phát thanh, truyền hình được ban hành vào các năm 2003, 2005 và 2013, đã giúp cho việc sử dụng tần số trong lĩnh vực này được quy củ, tiết kiệm.
Kiểm soát tần số là một chức năng cơ bản của công tác quản lý tần số. Năm 2000, lần đầu tiên Quy hoạch tổng thể mạng đài kiểm soát tần số được Tổng cục Bưu điện ban hành và sau đó được ban hành tiếp vào năm 2010, đã tạo dựng cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng hệ thống kiểm soát tần số. Từ chỗ chỉ có 2 đài kiểm soát tần số đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đến nay mạng đài kiểm soát đã được xây dựng trên cả nước với 91 Trạm kiểm soát tần số cố định, 22 Trạm kiểm soát tần số lưu động, 02 Hệ thống kiểm soát định vị sóng ngắn, 01 Trạm kiểm soát vệ tinh, hàng chục bộ thiết bị kiểm soát tần số xách tay, cầm tay. Nhờ đó, trung bình hàng năm, Cục đã phát hiện kịp thời và xử lý thành công hơn 600 vụ vi phạm thông tin, gần 70 vụ can nhiễu, trong đó có nhiều vụ nhiễu phức tạp liên quan đến quốc phòng, an ninh.
Năm 2008, vệ tinh viễn thông đầu tiên của Việt Nam (Vinasat-1) được phóng vào quỹ đạo, đánh dấu mốc son mới trong ngành viễn thông của Việt Nam. Tiếp theo thành công của Vinasat-1, Việt Nam đã phóng vệ tinh Vinasat-2 vào năm 2012 và vệ tinh viễn thám VNRedsat-1 vào năm 2013. Thành công của các dự án phóng vệ tinh có sự đóng góp đặc biệt quan trọng của Cục trong công tác đàm phán phối hợp tần số và vị trí quỹ đạo, khẳng định chủ quyền Việt Nam trên vũ trụ.
Thành công trong đàm phán tần số và quỹ đạo vệ tinh là một trong những kết quả của chiến lược chủ động hội nhập quốc tế ở cấp độ khu vực lẫn cấp độ toàn cầu mà Cục đã kiên trì thực hiện, nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích quốc gia về tần số và quỹ đạo vệ tinh. Mặc dù là nước đi sau, nhưng uy tín, tiếng nói và vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực quản lý tần số ngày càng được ghi nhận. Từ năm 2010 đến nay, Cục đã được giao chủ trì về vấn đề quản lý tần số của các nước ASEAN. Năm 2014, lần đầu tiên ứng cử viên của Việt nam được bầu vào Ủy Ban thể lệ vô tuyến của ITU. Nhiều cán bộ trẻ của Cục được tín nhiệm giao nắm giữ các vị trí quan trọng trong các nhóm nghiên cứu về thông tin vô tuyến của Liên minh Viễn thông quốc tế và khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Ứng dụng công nghệ thông tin để cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng suất lao động là một hướng đi được Cục quyết tâm theo đuổi. Năm 2010, Cục được trao tặng giải thưởng “Cơ quan Nhà nước cấp Tổng cục, Cục và tương đương ứng dụng CNTT hiệu quả nhất”. Ngay sau đó, Năm 2011, Cục bắt đầu cung cấp dịch vụ cấp giấy phép điện tử thay cho việc đăng ký và cấp phép bằng giấy. Đến nay, trung bình mỗi năm Cục đã cấp trên 20 nghìn giấy phép điện tử, chiếm gần 70% tổng số giấy phép Cục cấp ra. Năm 2009, Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 chính thức được áp dụng tại Cục, đưa Cục trở thành một trong những cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên áp dụng tiêu chuẩn này.
Cũng trong năm 2011, Cục chính thức đưa vào hoạt động Phòng đo tương thích điện từ (EMC). Đây là phòng thử nghiệm quan trọng được đưa vào sử dụng phục vụ mục đích quản lý chất lượng phát xạ vô tuyến điện của các thiết bị điện, điện tử – một thành tố quan trọng trong công tác quản lý phổ tần đã được Luật Tần số VTĐ quy định.
Tháng 11/2015, tại Đà Nẵng, truyền hình tương tự mặt đất sau nhiều thập kỷ tồn tại đã ngừng phát sóng hoàn toàn, chuyển sang phát sóng truyền hình số mặt đất. Đà Nẵng trở thành thành phố đầu tiên của ASEAN hoàn thành số hóa truyền hình mặt đất. Đây là thành công quan trọng bước đầu của Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2011, mà Cục Tần số VTĐ là cơ quan khởi nguồn đề xuất và được giao nhiệm vụ Văn phòng Ban chỉ đạo. Ngày 15/6 tới đây một số kênh truyền hình tương tự sẽ được tiếp tục ngừng phát tại 23 tỉnh thành khu vực Bắc Bộ và Nam Bộ, tiến tới ngừng hoàn toàn kênh tương tự tại các các địa phương này vào cuối năm nay.
Cùng với quyết tâm thực hiện tốt chức năng quản lý, Cục cũng đã kiên trì thực hiện và quyết tâm xây dựng Cục thành đơn vị lớn mạnh không ngừng, luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển thông tin vô tuyến điện.
Cơ chế tự chủ tài chính được Nhà nước giao ngay khi mới thành lập vốn là một thách thức cực kỳ lớn đối với Cục Tần số VTĐ (khi đó chưa thu được phí sử dụng tần số), nhưng sau 23 năm thực hiện, nó đã được chứng minh tính hiệu quả trong thực tế, đã được Chính phủ và các Bộ, ngành ghi nhận, ủng hộ. Cơ chế tự chủ đã giúp Cục xây dựng được hệ thống trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu quản lý, đồng thời giúp cho Cục xây dựng được đội ngũ cán bộ có tinh thần đổi mới, sáng tạo, chủ động trong công việc thông qua cơ chế chi trả thu nhập gắn liền với vị trí, trách nhiệm công việc và năng suất lao động.
Năm 2007, Cục Tần số VTĐ đã được nâng cấp lên Cục hạng I và năm 2008 được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức. Điều này thể hiện sự nhìn nhận và đánh giá của Chính phủ và Bộ TTTT về tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
Hành trình 23 năm xây dựng và trưởng thành, Cục Tần số VTĐ đã có nhiều đóng góp to lớn vào sự phát triển thông tin vô tuyến điện của Việt Nam, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh ninh quốc gia, chung tay cùng các ngành, các cấp nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự cố gắng và những đóng góp của Cục đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận bằng những phần thưởng và danh hiệu cao quý mà tiêu biểu là Danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới được trao tặng năm 2013 và Huân chương Độc lập hạng Ba được trao tặng năm 2015.